[A3]Class - Trần Hưng ĐẠo School
Làm sao để nghe được Tiếng Anh Phần 3 0.970614001254811187
Chào mừng bạn đến với forum, hãy đăng kí thành viên để mặc sức tung hoành nhé
[A3]Class - Trần Hưng ĐẠo School
Làm sao để nghe được Tiếng Anh Phần 3 0.970614001254811187
Chào mừng bạn đến với forum, hãy đăng kí thành viên để mặc sức tung hoành nhé
[A3]Class - Trần Hưng ĐẠo School
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
[A3]Class - Trần Hưng ĐẠo School


 
Trang ChínhTrang Chính  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng Nhập  

Share|

Làm sao để nghe được Tiếng Anh Phần 3

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down
19/3/2010, 8:50 pm

thang_haitac

Ńổ ŤĤì ŤĤôĨ

thang_haitac

 Ńổ ŤĤì ŤĤôĨ

http://vn.360plus.yahoo.com/soinho-lovely
Đến từ : thien duong A3vô địch
Sinh Nhật : 12/03/1993
Thanks : 44
Bài gửi : 288
Điểm : 5550

Bài gửiTiêu đề: Làm sao để nghe được Tiếng Anh Phần 3

Làm sao để nghe được Tiếng Anh Phần 3



Saturday, 1. August 2009, 13:29:56

Hai bài trước đây, tôi nói về việc nghe
‘âm thanh’ của tiếng Anh, có nghĩa là làm sao phân biệt được các âm với
nhau đến nỗi, dù không hiểu câu ấy nói gì, cũng có thể lặp lại đúng lời
người ta nói ra (câu càng dài thì kỹ năng nghe của mình càng cao). Dĩ
nhiên, có những người được ‘lỗ tai âm nhạc’ thiên phú nên phân biệt âm
thanh rất nhanh. Ví dụ em Wendy Võ, một nhi đồng gốc Việt tại North
Carolina (tên Việt Nam là Võ thị Ngọc Diễm). Năm nay em mới 8 tuổi mà đã
nói được 11 thứ tiếng và soạn 45 bản nhạc. Em có khả năng lặp lại một
câu nói bằng bất cứ ngôn ngữ nào trên thế giới, mà không cần hiểu nghĩa.
Thế nhưng thường thường, người ta phải mất nhiều thời gian để phân biệt
các âm trong một ngôn ngữ mới, tuy nhiên TẤT CẢ MỌI NGƯỜI đều có khả
năng này, bằng chứng là không một người nào trên trái đất (trừ người
điếc) là không thể nghe và nói ngôn ngữ mẹ đẻ của mình.

Nếu thời gian qua, các bạn đã lắng nghe âm thanh tiếng Anh thôi,
thì đến nay, hẳn bạn đã nhận thấy rằng bỗng dưng có một số từ hay cụm từ
mình nghe rõ ràng hơn xưa, đặc biệt là những con số và những danh từ
riêng (của các nhân vật, các địa danh … ), và những từ mình đã quen
thuộc. Có những đoạn bạn nghe một thời gian dài 5-15 phút (như trên TV)
rồi bỗng thấy mình ‘hiểu’ cơ bản nội dung chương trình đó.

Như thế là các bạn đã nghe tiếng Anh. Nhưng dù muốn dù không, khi
nghe một ngôn ngữ mà chỉ nghe âm thanh thôi, thì cũng giống như mình
nghe nhạc (không lời), hay nghe tiếng gió, tiếng chim. Nếu chỉ nghe như
thế thì không đáng bỏ công, vì ngôn ngữ cốt là để truyền tin (truyền một
thông tin). Nếu ta không nắm được thông tin bên dưới âm thanh phát ra
bằng tiếng Anh, thì kể như chúng ta không ‘nghe’ được tiếng Anh. Vì thế,
điều chúng ta cần học lại trước hết là nghe tiếng Anh (như một âm thanh
thuần túy) để tiến đến bước sau cùng (mà bình thường người học ngoại
ngữ xem là bước đầu tiên), ấy là ‘nghe’ tiếng Anh, theo nghĩa là ‘hiểu’
một thông tin.



Vì thế, sau hai bài để nói về cách nghe tiếng Anh, hôm nay tôi sẽ đi
sâu hơn, ấy là ‘nghe’ tiếng Anh, theo nghĩa là nắm bắt nội dung của
thông tin qua một chuỗi âm thanh bằng tiếng Anh.



Nghe
tiếng Anh và ‘nghe’ tiếng Anh




1. ‘Nghe’ trong ngữ cảnh.

Tôi từng nhắc đi nhắc lại rằng đừng bao giờ tra từ điển khi mình
nghe một diễn từ. Điều chủ yếu là nghe và lặp lại được những âm thanh đã
nghe, rồi dần dần hiểu được một từ mới, khi nó xuất hiện trong nhiều
nội dung khác nhau (nếu cả năm mình mới nghe từ đó một lần, có nghĩa là
từ ấy không thông dụng và, trong giai đoạn này, ta không cần phải bận
tâm đến nó!). Ví dụ: bạn nghe nhiều lần (âm thanh) ‘oubou’ mà không hiểu
nghĩa, lần lượt trong những câu sau:



- To play the ‘oubou’ you need to have strong arms.

- The ‘oubou’ is considered one of the most difficult instruments to
play.

- The ‘oubou’ is very difficult to play, because Karen must force
air at very high pressure into the tiny double reed.



Hai bài trước đây, tôi nói về việc
nghe ‘âm thanh’ của tiếng Anh, có nghĩa là làm sao phân biệt được các âm
với nhau đến nỗi, dù không hiểu câu ấy nói gì, cũng có thể lặp lại đúng
lời người ta nói ra (câu càng dài thì kỹ năng nghe của mình càng cao).
Dĩ nhiên, có những người được ‘lỗ tai âm nhạc’ thiên phú nên phân biệt
âm thanh rất nhanh. Ví dụ em Wendy Võ, một nhi đồng gốc Việt tại North
Carolina (tên Việt Nam là Võ thị Ngọc Diễm). Năm nay em mới 8 tuổi mà đã
nói được 11 thứ tiếng và soạn 45 bản nhạc. Em có khả năng lặp lại một
câu nói bằng bất cứ ngôn ngữ nào trên thế giới, mà không cần hiểu nghĩa.
Thế nhưng thường thường, người ta phải mất nhiều thời gian để phân biệt
các âm trong một ngôn ngữ mới, tuy nhiên TẤT CẢ MỌI NGƯỜI đều có khả
năng này, bằng chứng là không một người nào trên trái đất (trừ người
điếc) là không thể nghe và nói ngôn ngữ mẹ đẻ của mình.

Nếu thời gian qua, các bạn đã lắng nghe âm thanh tiếng Anh thôi,
thì đến nay, hẳn bạn đã nhận thấy rằng bỗng dưng có một số từ hay cụm từ
mình nghe rõ ràng hơn xưa, đặc biệt là những con số và những danh từ
riêng (của các nhân vật, các địa danh … ), và những từ mình đã quen
thuộc. Có những đoạn bạn nghe một thời gian dài 5-15 phút (như trên TV)
rồi bỗng thấy mình ‘hiểu’ cơ bản nội dung chương trình đó.

Như thế là các bạn đã nghe tiếng Anh. Nhưng dù muốn dù không, khi
nghe một ngôn ngữ mà chỉ nghe âm thanh thôi, thì cũng giống như mình
nghe nhạc (không lời), hay nghe tiếng gió, tiếng chim. Nếu chỉ nghe như
thế thì không đáng bỏ công, vì ngôn ngữ cốt là để truyền tin (truyền một
thông tin). Nếu ta không nắm được thông tin bên dưới âm thanh phát ra
bằng tiếng Anh, thì kể như chúng ta không ‘nghe’ được tiếng Anh. Vì thế,
điều chúng ta cần học lại trước hết là nghe tiếng Anh (như một âm thanh
thuần túy) để tiến đến bước sau cùng (mà bình thường người học ngoại
ngữ xem là bước đầu tiên), ấy là ‘nghe’ tiếng Anh, theo nghĩa là ‘hiểu’
một thông tin.



Vì thế, sau hai bài để nói về cách nghe tiếng Anh, hôm nay tôi sẽ đi
sâu hơn, ấy là ‘nghe’ tiếng Anh, theo nghĩa là nắm bắt nội dung của
thông tin qua một chuỗi âm thanh bằng tiếng Anh.



Nghe
tiếng Anh và ‘nghe’ tiếng Anh




1. ‘Nghe’ trong ngữ cảnh.

Tôi từng nhắc đi nhắc lại rằng đừng bao giờ tra từ điển khi mình
nghe một diễn từ. Điều chủ yếu là nghe và lặp lại được những âm thanh đã
nghe, rồi dần dần hiểu được một từ mới, khi nó xuất hiện trong nhiều
nội dung khác nhau (nếu cả năm mình mới nghe từ đó một lần, có nghĩa là
từ ấy không thông dụng và, trong giai đoạn này, ta không cần phải bận
tâm đến nó!). Ví dụ: bạn nghe nhiều lần (âm thanh) ‘oubou’ mà không hiểu
nghĩa, lần lượt trong những câu sau:



- To play the ‘oubou’ you need to have strong arms.

- The ‘oubou’ is considered one of the most difficult instruments to
play.

- The ‘oubou’ is very difficult to play, because Karen must force
air at very high pressure into the tiny double reed.



Lần đầu tiên, bạn chẳng biết âm
‘oubou’ chỉ cái gì, nhưng vì đi với play nên bạn đoán rằng đó là một cái
gì để ‘chơi’. Như thế là đã ‘hiểu’ một cách tổng quát. Lần 2, với từ
‘instrument’ bạn biết rằng đó là cái để ‘chơi’ nhưng không phải là trong
thể thao, mà là trong âm nhạc. Lần thứ ba, với cụm từ ‘must force air’
thì ta biết rằng đó là một nhạc cụ thổi hơi (khí nhạc) chứ không phải
là nhạc cụ dây hay gõ… Và ta tạm hiểu như thế, mà không cần biết phải
viết thế nào, cho đến khi đọc câu sau (chẳng hạn):

The oboe looks very similar to the clarinet, but sounds very
different!

Thế là ta biết được rõ ràng đó là một nhạc khí tương tự như
clarinet, và từ mà ta nghe là ‘oubou’ thì được viết là oboe (và ta đọc
đúng ngay chứ không cần phải tra từ điển!)



Ps: Đây cũng là vấn đề ‘hiểu’ một từ.
Chúng ta có cảm giác rằng nếu dịch được tiếng ấy ra là ta hiểu ngay, thế
nhưng không có gì sai cho bằng. Nếu bạn học theo quá trình ngược, nghĩa
là khởi sự biết từ ấy dưới dạng chữ viết, bạn sẽ tra từ điển và đọc là:
kèn ô-boa! Bạn thấy hài lòng vì mình đã hiểu! Nhưng thực ra, nếu bạn
không phải là một nhạc sĩ, thì ‘kèn ô-boa’ cũng chẳng thêm gì trong kiến
thức bạn. Ngay trong tiếng mẹ đẻ, ta có thể hài lòng với khái niệm mơ
hồ về một từ, nhưng khi học ngoại ngữ thì ta có cái cảm giác sai lầm là
phải trở lại với từ mẹ đẻ mới gọi là hiểu. Đối với tôi, nightingale là
một loại chim có tiếng hót hay và thường hót vào ban đêm, còn có dịch ra
là ‘sơn ca’ hay ‘họa mi’ thì cũng bằng thừa, vì tôi chưa bao giờ thấy
và biết chim ‘sơn ca’ hay ‘họa mi’. Thậm chí không biết là có phải một
loài chim hay hai loài chim khác nhau, vì cả hai từ đều được dịch là
nightingale.



2. Nghe trong toàn bộ bối
cảnh.


Ta thường nghĩ rằng: ‘một từ thì có một nghĩa nhất định’. Hoàn toàn
sai.

- Thử tra từ ‘tiêu cực’ trong từ điển: negative. Như thế, ‘một cán
bộ tiêu cực’ phải được dịch là ‘a negative cadre’! Nếu cụm từ tiếng Việt
có ý nghĩa rõ ràng thì cụm từ dịch ra tiếng Anh (như trên) là hoàn toàn
vô nghĩa! Nói cách khác: khi người Anh nói ‘negative’, thì người Việt
hiểu là ‘tiêu cực’; nhưng khi người Việt nói ‘tiêu cực’, thì người Anh
không thể hiểu là ‘negative.’



- Từ đó ta không thể nào hiểu đúng nghĩa một từ tiếng Anh nếu không
đặt vào trong bối cảnh của nó. Ví dụ: nếu không để ý rằng câu chuyện
xảy ra ở Anh hay ở Mỹ, thì khi nghe từ corn ta có thể hiểu sai: Ở Anh là
lúa mì, và ở Mỹ là bắp!



Nếu thấy một người mở nắp bình xăng lên mà nói ‘Oh my! No more gas’
thì ta hiểu ngay rằng ‘gas’ chính là ‘xăng’, mặc dù trước đó mình có thể
học: petrol hay gasoline mới là xăng, còn gas có nghĩa là khí đốt!



Mà nhiều khi bối cảnh rõ đến nỗi, người ta dùng một từ sai mình cũng
hiểu đúng. Bạn cứ thử đến cây xăng, mở bình và nói: đổ cho tôi 30.000
dầu! Tôi cam đoan là người ta không thắc mắc gì cả và sẽ đổ XĂNG chứ
không đổ DẦU vào xe bạn; cao lắm là trong 100 lần, thì một lần người ta
nhắc lại: đổ xăng phải không? Bạn nói là Dầu người ta vẫn hiểu là Xăng.
Và trong tiếng Anh cũng thế! Bạn sẽ hiểu một từ trong toàn bộ bối cảnh
của nó.



3. Nghe với tất cả giai điệu của câu.

Trong phần đầu tôi nói rằng khi ‘nghe’ một câu, chủ yếu là làm sao
nắm bắt được thông tin của chuỗi âm thanh ấy. Nói cách khác, ngôn ngữ có
nhiệm vụ là truyền tin. Nhưng ngoài nhiệm vụ truyền tin thì còn một
nhiệm vụ thứ hai, vô cùng quan trọng, ấy là nhiệm vụ truyền cảm (truyền
một tình cảm). Một câu nói giao tiếp hằng ngày, luôn chuyển tải một phần
của thất tình (= bảy tình cảm con người, chứ không phải là bị tình phụ
đâu: hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục). Vì thế, cao độ, tốc độ, cường độ của
câu nói, trường độ (độ dài) và dấu nhấn của một từ, có thể là điều mình
cần phải ‘nghe’ cùng một lúc với các âm thanh được phát ra, thậm chí
nghe âm điệu là chính. Nếu không thì ta hiểu sai, hoặc không hiểu gì cả.
Đừng tưởng rằng khi ta nghe được từ ‘hate’ là ta hiểu ngay: ghét!

Vì dụ nghe một cô gái nói với một cậu trai: I hate you! Câu này
không phải lúc nào cũng là ‘Em ghét anh'! Nói với một ngữ điệu nào đó
thì có thể hiểu là: Tôi căm thù anh; hay Thôi, để tôi yên; hay Anh làm
tôi bực mình; hoặc trái lại: Anh làm em cảm động quá; thậm chí: Em yêu
anh quá chừng chừng!



Và cách nhấn câu cũng thế. Ví dụ trong câu sau đây:

I didn’t say Paul stole my watch!

Nếu người nói nhấn mạnh các từ theo 7 cách khác nhau, mỗi cách nhấn
một từ ( I - didn’t - say - Paul - stole - my - watch ) thì nghĩa sẽ
khác nhau hoàn toàn:

I didn’t say Paul stole my watch! (Somebody else said that!)

I didn’t say Paul stole my watch! (No! I didn't act like that)

I didn’t say Paul stole my watch! (I disclosed by another way, but I
didn't SAY) v.v



Khi học tiếng Việt, chúng ta nghe toàn bộ giai điệu, nên nghe (và
nói) đúng cao độ của một từ (đúng các dấu); thế nhưng khi một người nước
ngoài học tiếng Việt, chúng ta phải khổ công giải thích cho họ lên
giọng, xuống giọng, uốn giọng như thế nào để nói các dấu sắc, huyền,
nặng, hỏi - ngã (do học nghe bằng tai nên người Nam và người Trung đồng
hóa ? và ~, trong khi người Bắc phân biệt chúng rõ ràng). Vì thế, ngược
lại, khi nghe tiếng Anh, cần phải nghe toàn bộ âm điệu để nắm bắt những
tình cảm bên dưới câu nói.



Nghe với cả giai điệu, mình sẽ hiểu (và sau này sẽ dùng) những câu
hay thành ngữ một cách chính xác như người bản ngữ, mà không cần phải
dịch ra. Ví dụ: các câu ngắn như: Oh my God! Look at this! Hoặc No way!
Hoặc You're joking/kidding! Với giọng điệu khác nhau, những câu nói hằng
ngày đó có thể được hiểu là một tiếng khen hay chê, thán phục hay thất
vọng, bằng lòng hay bất bình, chấp thuận hay từ chối!



Và từ đó, mình sẽ biết đối xử khi dùng tiếng Anh cho đúng nghĩa, chứ
không chỉ đúng văn phạm. Ví dụ, khi tiếp một nhân vật quan trọng đến
công ty bạn, bạn chuẩn bị nói một câu mời rất trân trọng và đúng nghi
thức (formal): Would you please take a seat? Thế nhưng bạn căng thẳng
đến độ nói theo một âm điệu nào đó khiến người kia bực mình với bạn (mà
bạn không hề biết), vì ngỡ rằng bạn diễu cợt người ta! Thế là hỏng cả
một cuộc đàm phán. Thà rằng bạn nói đơn sơ: Sit down! Với một giọng hòa
nhã, thái độ tôn trọng, cử chỉ lịch thiệp và nụ cười nồng hậu, thì không
ai lầm bạn! Trái lại, nói câu rất formal trên kia, với thái độ căng
thẳng và giọng nói cộc lốc (vì sợ nói sai!), thì tai hại hơn nhiều.



4. Nghe với những gì một từ bao hàm.

Ngôn ngữ dùng để truyền tin, nhưng đồng thời cũng truyền cảm. Vì
thế, mỗi danh từ vừa chỉ định một cái gì cụ thể (denotation), vừa kèm
theo một tình cảm (connotation). Các từ this gentleman, this man, this
guy, this rascal đều có một denotation như nhau là một người nam nào đó,
nhưng connotation thì hoàn toàn khác; cũng như đối với một người nữ nào
đó ta có thể dùng: a lady, a woman, a girl, a whore. Cùng một từ như
communism chẳng hạn. Đối với một đảng viên đảng Cộng Sản hay một cảm
tình viên, thì từ ấy gợi lên bao nhiêu điều dịu dàng cao đẹp, còn đối
với người chống cộng, thì từ ấy gợi lên bao nhiêu điều xấu xa, độc ác!
Trong khi denotation của nó chỉ là một triết thuyết như trăm ngàn thuyết
thuyết khác, mà dù thích dù không, người ta cũng phải dùng để chỉ định
triết thuyết do Karl Marx đề ra! Từ đó, câu nói 'You're a communist!' có
thể là một lời khen nồng ấm hoặc là một lời chỉ trích thậm tệ, tùy theo
connotation của nó.





Khi học tiếng Anh, muốn nâng cao vốn từ vựng thì ta cố học nhiều từ
đồng nghĩa (synonyms). Thế nhưng, không bao giờ có synonyms đích thực
cả: chỉ tương đương trong denotation chứ connotation hoàn toàn khác (và
cũng vì thế mà không bao giờ có hai từ hoàn toàn có nghĩa giống nhau ở
hai ngôn ngữ khác nhau: father/mother không hoàn toàn là cha/mẹ - và
daddy/mummy không hoàn toàn là ba/má; vì tình cảm đính kèm với các từ ấy
khác hẳn giữa người Việt và người Anh). "Nghe" tiếng Anh, chính là biết
nghe những connotations trong các thuật ngữ mình nghe.



Cho đến nay, tôi chỉ đề nghị các bạn nghe tin tức. Nhưng đó là giai
đoạn nghe để quen với các âm. Trong giai đoạn ‘nghe’ tiếng Anh này, phải
bớt giờ nghe tin tức mà xem phóng sự hoặc các phim truyện. Trên thế
giới, các speakers của các chương trình tin tức buộc phải nói với thái
độ neutral, nghĩa là không được dùng từ kèm theo tình cảm, và không được
xử lý âm điệu để bộc lộ tình cảm của mình, vì thế họ nói rất dễ nghe,
nhưng chỉ nghe tin tức thôi thì ta bỏ sót một phần khá chủ yếu trong
tiếng Anh.



(Trái lại xướng ngôn viên Việt Nam nhiều khi chưa làm chủ được tình
cảm mình trong quá trình đọc một bản tin, và người ta thấy ngay là xướng
ngôn viên vui mừng hay bực tức, tán đồng hay bất đồng, với nội dung bản
tin mình đọc. Còn người viết bản tin thì dùng những từ có connotation:
ví dụ trước kia, khi nói đến một tổng thống Mỹ thì bao giờ cũng là ‘tên
Kennedy’ hoặc ‘tên tổng thống Kennedy’. Còn hiện nay thì ‘Ngài tổng
thống Bush’, mà ít khi nói một cách trung lập: Tổng Thống G. Bush. Trong
khi đó, hầu như không bao giờ nghe trong một bản tin: ‘Cố chủ tịch Hồ
Chí Minh’, mà lúc nào cũng là ‘Bác Hồ’. Thuật ngữ ‘Bác Hồ’ mặc nhiện
tiềm ẩn một tình yêu thương và kính trọng đến độ cụm từ ‘cố chủ tịch Hồ
Chí Minh’, vốn là một cụm từ neutral, lại trở thành một cụm từ ‘thất
kính, xem thường’ đối với ‘Chủ tịch Hồ Chí Minh’!)



5. Nghe bằng trái tim để cảm điều họ cảm.

Và cuối cùng, đối với các bạn muốn đi thật sâu vào tiếng Anh, thì có
thể phối hợp tất cả các kỹ năng để hiểu những điều tiềm tàng bên dưới
ngôn ngữ giao tiếp; và điều này hướng đến cách nghe văn học. Mọi ngôn
ngữ đều gợi lên một cái gì đó vượt lên trên từ ngữ. Vì thế, thi ca là
một ngôn ngữ đặc biệt. Người Việt nào, dù thích hay không thích, vẫn cảm
được ngôn ngữ của thi ca. Do đó, muốn nâng cao kỹ năng ‘nghe’ tiếng Anh
của mình thì cần tập nghe những bài thơ. Cho đến nay, khó tìm những bài
thơ audio, nhưng không phải là không có. Tập nghe đọc thơ, dần dần,
chúng ta sẽ cảm được cái tinh túy của tiếng Anh, từ đó ta cảm được vì
sao cùng một tư tưởng mà diễn đạt cách này thì 'hay' hơn cách kia. Bấy
giờ ta mới có quyền nói: tôi đã ‘nghe’ được tiếng Anh.



Ví dụ, khi muốn người ta cảm nhận tiếng gió mùa thu, thì Xuân Diệu
đã sử dụng âm ‘r’ trong bài “Đây Mùa Thu Tới”:

Những luồng run rẩy rung rinh lá





Tương tự như vậy Robert L. Stevenson viết trong The Wind

I saw you toss the kites on high

And blow the birds about the sky;

And all around I heard you pass,

Like ladies’ skirts across the grass..

Tác giả đã làm cho ta cảm được làn gió hiu hiu với các âm ‘r’ và ‘s’
nối tiếp và quyện vào nhau trong câu cuối, kèm với hình ảnh độc đáo của
váy các mệnh phụ lướt qua trên cỏ (điều mà người Việt Nam hoàn toàn
không có kinh nghiệm, vì mọi nét yêu kiều đều gắn liền với tà áo dài).



Kết luận:



Tôi đã bắt đầu gợi ý nghe tiếng Anh để rồi đi đến vấn đề ‘nghe’
tiếng Anh. Tuy nhiên, tôi lặp lại, những gì tôi nói chỉ là lý thuyết, và
không có lý thuyết nào có thế làm cho bạn nghe được tiếng Anh. Cách duy
nhất ấy là bạn phải tự mình nghe và rút ra những phương pháp thích hợp
với xu hướng, kinh nghiệm và sở thích của mình.



Qua loạt bài này, tôi luôn đả phá cách nghe dựa trên viết và dịch.
Thế nhưng, những điều tôi cho là trở ngại, nhiều khi lại có ích cho bạn,
vì những thứ ấy không cản trở mà còn giúp bạn những cột móc để bám vào.
Vâng. Nếu các bạn thấy việc đọc script, hoặc học từ vựng, hoặc viết
thành câu và tra từ điển - như vẫn làm từ trước đến nay - giúp cho bạn
nghe và hiểu nhanh hơn thì cứ sử dụng phương pháp của mình. Tôi chỉ nhắc
lại một điều này:



Tất cả những trợ giúp đó cũng giống như chiếc phao cho người tập
bơi. Khi tập bơi, nhiều người cần có một cái phao để bám vào cho dễ nổi,
từ đó bạo dạn xuống nước mà tập bơi. Và không ít người bơi giỏi đã khởi
sự như thế. Bạn cũng vậy, có thể những cách nghe từ trước đến giờ (nhìn
script - học từ - kiểm tra văn phạm) giúp bạn những cột chắc chắn để
bám vào mà nghe. Vậy thì xin nhớ rằng: Chiếc phao giúp cho bạn nổi,
nhưng không giúp cho bạn biết bơi. Đến một giai đoạn nào đó, chính chiếc
phao lại cản trở bạn và không cho bạn bơi thoải mái.



Hãy vứt cái phao sớm chừng nào hay chừng
nấy, nếu không nó trở thành một trở ngại cho bạn khi bạn muốn bơi nhanh
và xa.

Hãy vứt những chữ viết khi nghe nói, nhanh chừng nào hay chừng ấy,
nếu không chúng sẽ cản trở bạn và bạn không bao giờ thực sự 'nghe' được
tiếng Anh!



1. Đầu tiên, em có thể click ngay vào "Audio/ Video News" ở main bar
trên (dưới cái bánh sinh nhật). Em sẽ vào trang Audio mà các thầy, cô
và bạn hữu của ET soạn rất tốt.


2. Sau đây là những link mà em có thể tìm những bài audio của người
bản ngữ (Giọng Anh/ British - giọng Mỹ/ American hay Úc? Australian) ở
trình độ thấp và vừa. Có audio cho em download, và có cả script.


[You must be registered and logged in to see this link.] (click vào chủ đề em muốn chọn thì sẽ ra nhiều
topic: Working - Law & Government - Family...)

[You must be registered and logged in to see this link.]


3. Ngoài ra em có thể vào địa chỉ này, và kéo xuống đến 'Học Ngoại
Ngữ" em sẽ có vài link nữa:

[You must be registered and logged in to see this link.]

Em thử đi, nếu còn gì thắc mắc nữa thì cho biết.

Làm sao để nghe được Tiếng Anh Phần 3

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
[A3]Class - Trần Hưng ĐẠo School :: -‘๑’-Góc học tập-‘๑’- :: Ngoại ngữ-

Edit by Banhmikho - Website: http://bantui.tk
Powered by phpbb® Version 2.0
Copyright ©2000 - 2010, Jelsoft Enterprises Ltd.
Làm sao để nghe được Tiếng Anh Phần 3 Cron

 
Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất